Cùng Phượt - Phú Thọ được biết đến là cái nôi của nền văn hóa Lạc Việt, trung tâm sinh tụ của người Việt Cổ, thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nơi đây vẫn giữ được dấu ấn của những buổi đầu bình minh dựng nước của dân tộc. Với hệ thống các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú: 1.372 di tích lịch sử văn hóa (trong đó Khu di tích lịch sử Đền Hùng là Di tích quốc gia đặc biệt), cùng với “Hát Xoan Phú Thọ”, “Ca Trù”, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đến với các địa điểm du lịch ở Phú Thọ để được trải nghiệm nét văn hóa độc đáo với nhiều di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử, lễ hội dân gian, các loại hình nghệ thuật đặc sắc gắn liền thời đại các Vua Hùng, cội nguồn dân tộc Việt Nam.
Việt Trì
Đền Hùng
Khu di tích Đền Hùng, điểm đến nổi tiếng ở Phú Thọ (Ảnh - Thanh Phan The)Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm du lịch Đền Hùng (Cập nhật 7/2024)
Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân
Đền Quốc tổ Lạc Long Quân được xây dựng tại đồi Sim, cách núi Nghĩa Lĩnh khoảng 1 km, nơi có vị trí đắc địa, có thế “sơn chầu thuỷ tụ”. Đồi Sim có hình thế giống một con rùa lớn, hai bên có Thanh Long, Bạch Hổ, phía trước là hồ Hóc Trai và sông Hồng chảy xuôi về biển. Ngôi đền tọa lạc trên lưng rùa biểu hiện sự linh thiêng huyền diệu.
Đền chính có diện tích 210m2, kiến trúc kiểu chữ đinh truyền thống, nội thất bằng gỗ lim, sơn son thếp vàng, mái lợp ngói mũi hài, nền lát gạch Bát Tràng, bó vỉa đá xanh. Hậu cung đặt tượng thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân dáng vẻ uy nghiêm. Tượng được đúc bằng đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là tượng Lạc hầu và Lạc tướng ở tư thế đứng có chiều cao 1,80m, mỗi pho nặng 0,5 tấn.
Cổng đền (nghi môn) cũng được xây dựng theo kiểu truyền thống, gồm có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng khoảng 2m. Cổng được xây dựng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh chạm họa tiết hoa văn 4 mặt. Phía trước nghi môn là cổng biểu tượng cũng có kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá và chạm khắc. Hai bên sân đền là nhà tả vu, hữu vu xây dựng 5 gian, khung gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Hai trụ biểu đối xứng nhau cũng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh. Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được Nhà nước đầu tư xây dựng đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo hoa văn trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc… thể hiện sinh động, độc đáo mang nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền tôn thêm sự uy nghiêm, linh thiêng.
Bảo tàng Hùng Vương
Nằm trên đường Trần Phú, bên bờ hồ công viên Văn Lang - trung tâm của thành phố Việt Trì - Bảo tàng Hùng Vương được ví như một “cuốn sử bằng hiện vật” thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan, tìm hiểu và khám phá các giá trị độc đáo, riêng có về lịch sử, văn hóa của vùng đất Tổ cội nguồn.
Bảo tàng Hùng Vương được đặt ở vị trí trung tâm của kinh đô Văn Lang xưa bởi thế nó mang trong mình cả một kho tàng lịch sử, văn hóa đồ sộ với hơn 12.000 hiện vật gốc. Trong số đó Bảo tàng lựa chọn 2000 hiện vật đẹp, độc đáo mang giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ cao để trưng bày trong không gian trưng bày của mình với 3 nội dung chính: trưng bày cố định; trưng bày chuyên đề và trưng bày ngoài trời. Trong đó quan trọng nhất là phần trưng bày cố định được thiết kế hiện đại kết hợp hài hòa giữa hệ thống hiện vật gốc với 49 cụm mỹ thuật trải dài theo 5 chủ đề (Thiên nhiên, con người Phú Thọ; Phú Thọ thời kỳ tiền sử và sơ sử; Phú Thọ trong thời kỳ Bắc thuộc và xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ; Lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân Phú Thọ; Phú Thọ trong công cuộc đổi mới) giúp người xem có được cái nhìn toàn diện nhất về lịch sử hình thành, phát triển của tỉnh Phú Thọ từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến ngày nay và những nét đặc trưng về văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân vùng Đất Tổ.
Khu du lịch Bạch Hạc - Bến Gót
Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm ở phía Nam thành phố Việt Trì, cửa ngõ nối liền giữa Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Bến Gót ngày nay thuộc phủ Tam Đới xưa, còn tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, các truyền thuyết, chuyện kể về quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta như: “Hoa Long Thiền Tự” xưa ở bến sông Thông, cạnh chùa có một tảng đá ven sông, trên mặt còn hằn vết gót chân. Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn tế trời và đã được tiên ông từ trên trời xuống, ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới thuyền mới có tên là Bến Gót, Đình Bạch Hạc còn có tên là đình thôn Việt Trì là nơi thờ các vua Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đấu võ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần Sông đã có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man Đà Giang dẹp yên bờ cõi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ thổ lệnh có tên huý là Trần Lan và em là Thạch Khanh tên huý là Trần Bảo có phép thuật thần y, chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong làm thần thiêng ở ngã ba sông Hạc….. Ngoài ra trên mảnh đất này còn tồn tại rất nhiều sự tích ly kỳ, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như: Hội bơi chải, Hội giã bánh dầy,… nói lên sự hình thành tên làng, tên xóm, tên sông, những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của của nhân dân ta gắn liền với nền văn minh sông Hồng và nền văn minh lúa nước.
Với diện tích 100 ha, khu Du lịch Bến Gót được chia thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, trong đó phần lãnh thổ phía Bắc (thuộc phường Bến Gót) là chủ yếu. Khu du lịch có đặc trưng điển hình của vùng trung du Bắc Bộ, với địa hình nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế như một bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên hình ảnh về bến nước, dòng sông. Đặc biệt là sự gắn kết hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, thích hợp để xây dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giãn, vọng cảnh. Khu du lịch Bến Gót bao gồm những thành phần chủ yếu như: vui chơi giải trí, thể thao, nhà vườn, cắm trại, khách sạn, nhà nghỉ, câu cá, trại sáng tác, lầu bình thơ,… được tổ chức tạo thành trục chủ đạo đi từ cổng chính đến khu lầu tưởng niệm và vọng cảnh phía bờ sông, kết thúc là Lầu Bạch Hạc.
Lầu Bạch Hạc được xây dựng theo hướng vươn cao vừa tượng trưng cho đàn tế trời vừa là nơi du khách có thể ngắm cảnh xa xa, dưới tầng lầu có bia tưởng niệm 100 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ, giúp cho du khách hiểu rõ hơn nguồn gốc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh Lầu Bạch Hạc được tái dựng tảng đá lưu vết chân và hình dáng tiên ông phân định ngôi thứ, mở đầu cho sự hưng thịnh, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phần đất phía Nam chủ yếu dành cho các di tích lịch sử và thể thao nước truyền thống, một phần dành cho các nhà nghỉ nhỏ dưới dạng vườn nông thôn, vườn sinh thái…
Thiên cổ miếu
Nằm trong địa phận của kinh đô Văn Lang xưa, đền Thiên Cổ uy nghiêm ngự trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là ngôi đền thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, người thầy giáo đầu tiên của dân tộc đã có công dạy dỗ hai công chúa Tiên Dung - Ngọc Hoa con vua Hùng Vương thứ 18.
Tương truyền, thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên kinh đô Văn Lang dạy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai người tạ thế cùng một giờ, một ngày mồng 2 tháng 2 năm Quý Dậu (năm 228 trước Công nguyên). Đến nay phần mộ của hai vợ chồng thầy cô vẫn còn được nhân dân giữ gìn và bảo vệ cẩn thận ở trong ngôi đền. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, ngôi đền vẫn được người dân thôn Hương Lan, xã Trưng Vương hết lòng bảo vệ.
Đền Tam Giang - Chùa Đại Bi
Khu di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đền Tam Giang, chùa Đại Bi thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngôi đền nằm bên tả ngạn nơi hợp lưu của ba dòng sông: sông Hồng, sông Lô, sông Đà mà xưa nay nhân dân vẫn quen gọi là ngã ba Hạc. Đây là một thắng cảnh đẹp của vùng đất Tổ, thu hút đông đảo du khách đến tham quan và lễ bái.
Khu di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đền Tam Giang, chùa Đại Bi là cụm di tích hoàn chỉnh, thống nhất, gồm có: đền Tam Giang, đền Mẫu, chùa Đại Bi, vết chân Thổ lệnh Cao quan Bạch Hạc Đại Vương, bến bơi chải, tượng đài Chiêu Văn Vương Tả Thánh Thái Sư Trần Nhật Duật và bức phù điêu 18 ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Việt Nam.
Đền Tam Giang thờ nhân vật lịch sử huyền thoại thời Hùng Vương dựng nước là thần Thổ Lệnh, ông là thần làng - thần sông Bạch Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước. Chùa Đại Bi, ngôi chùa cổ do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và cháu gái là công chúa Thiên Thụy xây dựng từ đời Trần (năm 1328) đã có gần 700 năm tuổi.
Làng cổ Hùng Lô
Hùng Lô xưa là vùng đất trù phú, có lịch sử phát triển lâu đời. Đình Hùng Lô là quần thể di tích có giá trị văn hóa, lịch sử nổi bật trên vùng Đất Tổ, niên đại khoảng hơn 300 năm. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đình vẫn bảo tồn được nguyên vẹn giá trị kiến trúc, văn hóa, lịch sử: Ngôi miếu cổ, tòa Đại đình, Long đình, nhà Tiền tế, lầu chuông, lầu trống, nhà thờ Phật, bệ thờ thần nông, nhà Văn chỉ và nhà Yến lão.
Đình Hùng Lô
Đình Hùng Lô, thuộc làng cổ Hùng Lô, nằm dọc ven sông Lô, cách Đền Hùng chừng 10km về phía Đông. Đình Hùng Lô được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1990. Tương truyền, đây là vùng đất thiêng, nơi Vua Hùng từng nghỉ chân trong một lần đi du ngoạn. Về sau, dân lập miếu thờ, đến đời Lê Hy Tông (1697), đình được xây dựng, hướng về núi Nghĩa Lĩnh…
Một điểm đặc sắc đáng lưu ý nữa, đình Hùng Lô rất nổi tiếng về truyền thống trong lễ hội rước kiệu Đền Hùng từ xưa đến nay. Năm Mậu Ngọ (1918), đình Hùng Lô đã được thưởng “Kỷ niệm Hùng Vương đệ nhất hội”; hiện nay, biển thưởng này vẫn được trang trọng lưu giữ trong đình. Vào dịp lễ hội Đền Hùng hằng năm, đến đình Hùng Lô, du khách sẽ được hòa mình trong lễ rước kiệu quy mô rất hoành tráng của trên 200 nam trung, đi đến đâu náo động cả một vùng đến đó. Cuộc rước sẽ đi từ đình làng đến Đền Hùng; trở về từ Đền Hùng, các lễ tế tại đình làng mới được tiến hành, sau cùng là thụ lễ tại nhà Yến lão.
Chùa Cát Tường
Đền Tiên Cát và Chùa Cát Tường nằm bên bờ sông Hồng thuộc khu phố Anh Dũng, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì. Đền Tiên thờ Mẫu Thần Long Hồng Đăng Ngạn- Hoàng Hậu nước Xích Quỷ, vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ đẻ của Vua Lạc Long Quân. Người đã sát cánh cùng chồng trong buổi đầu dựng nước, trong việc dạy dỗ nhân dân và người đã được vua Kinh Dương Vương phong làm “Vi Cung Chính Khổn” thưởng cho cung Tiên Cát. Khi người mất nơi đây được chuyển thành Tiên Cát lăng được nhân dân trông nom gìn giữ suốt mấy nghìn năm.
Quần thể Lộc Vừng ở Cẩm Khê
Quần thể lộc vừng được công nhận là cây di sản nằm tại Gò Thờ, xã Chương Xá, huyện Cẩm Khê. Từ xa, quần thể lộc vừng như một chậu cây cảnh khổng lồ hay một khu rừng rậm rạp. Quần thể lộc vừng này có hơn 80 cây, nằm trên một quả gò chỉ rộng chừng 500 m2, trên đầm Láng Chương, hay còn gọi là gò Vình. Rất ít tài liệu ghi chép chính xác số tuổi của quần thể lộc vừng này, nhưng nhiều người ước tính nó đã hơn 1.000 năm tuổi.
Hạ Hòa
Đầm Ao Châu
Nằm trên khu vực của thị trấn ấm Thượng, xã Yên Sơn. Đầm Ao Châu có diện tích mặt nước trên 300 ha nổi lên giữa một vùng đồi trung du, tạo nên 99 ngách ăn sâu vào một vùng đồi gò rộng lớn với diện tích trên 1000ha. Nước trong đầm luôn trong xanh và sạch, độ sâu của nước trung bình từ 8 đến 10m, chỗ sâu nhất là 15m. Những quả đồi đất nổi lên giữa đầm nước mênh mông được trồng các loại cây bản địa như chè, cọ đặc biệt là các đồi vải chín đỏ vải vào mùa hè hàng năm tạo nên bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Vùng núi và đồi ven hồ là những rừng cây xanh tốt tạo nên một cảnh quan rất thơ mộng.
Đầm Ao Châu đã được quy hoạch để xây dựng thành một khu du lịch sinh thái với hệ thống các khách sạn sang trọng, các khu nghỉ dưỡng với các trò vui chơi giải trí như bơi thuyền, đua thuyền trên mặt đầm.
Đền Quốc Mẫu Âu Cơ
Đền nằm giữa một cánh đồng lúa bên dòng sông Thao thuộc xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà. Tương truyền trong số 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, người con cả dừng ở đất Phong Châu dựng kinh đô Văn Lang cai quản đất nước truyền ngôi được 18 đời, gọi là các vua Hùng. 49 người con theo mẹ tiếp tục ngược thượng nguồn sông Thao, đến vùng Hiền Lương thấy sơn thuỷ hữu tình, đất đai tươi tốt bèn hạ trại khai hoang lập ấp, dạy cho dân làng nghề trồng lúa, nuôi tằm…
Lễ chính đền Mẫu Âu Cơ vào ngày 7-1, kéo dài trong ba ngày, sau khi tế nữ xong mới đến lễ Mẫu dâng hương sớ. Trong dịp này trước sân đền và tại đình làng có nhiều trò chơi dân gian địa phương như: cướp cờ, đánh phết, hát ghẹo, hát xoan… Đặc biệt có tục làm bánh vôi từ bột gạo nếp và nước mía là đặc sản ngon nổi tiếng của vùng Hạ Hoà.
Ao Giời - Suối Tiên
Ao Giời - Suối Tiên thuộc huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ; hai bên đường tới Ao Giời - Suối Tiên có hàng trăm đỉnh núi lớn, nhỏ có độ cao trung bình từ 500 - 600m so với mặt biển. Với đỉnh cao 1.200m, núi Nả cao vượt lên sừng sững, trông thật hùng vĩ như điểm tựa của miền thượng vùng trung du rộng lớn, được phủ một màu xanh dày đặc của các loài cây nhiệt đới, chen chúc nhau tầng tầng, lớp lớp với khá nhiều loài cây quí hiếm như đinh, lim, gụ, vàng tâm… Trong rừng còn có các bầy khỉ, nai, hoẵng, lợn rừng, cầy hương…
Suối Tiên bắt nguồn từ trên núi Nả, chảy qua các khe đá, hình thành dải lụa trắng bạc, vắt ngang sườn núi, nổi bật giữa màu xanh mượt mà của núi rừng, lẫn vào màu xanh của mây trời, làm cho cảnh trí càng sinh động, kỳ ảo, cảnh tượng vừa gần gũi, vừa sâu thẳm, vừa rõ ràng, vừa huyền bí thơ mộng làm xao xuyến lòng người. Với chiều dài hơn 10km, lòng suối dày kín lớp sỏi đá và cát vàng làm cho nước suối được thanh lọc tinh khiết, trong vắt, lấp lánh ánh mặt trời phản chiếu. Đầu nguồn của con suối có Giếng Tiên, diện tích chừng 40m2, sâu đến hơn 10m. Từ đáy giếng, dòng nước phun lên mát lạnh, ngọt ngào tạo thành Suối Tiên. Suối Tiên quanh co chảy qua nhiều tầng, bậc tạo nên nhiều thác nước thẳng đứng. Suốt chiều dài con suối có tới 14 thác nước, trong đó có một số thác cao 20m, tựa những tấm màn the trắng xoá, che các hang, hốc đá phía trong.
Dưới chân các thác nước cao là những phiến đá khổng lồ, trải qua thời gian dài bị xói mòn, đã thành những chiếc ao nhỏ mà đáy ao là cả một phiến đá, làm nên vẻ đẹp riêng có ở nơi đây. Theo truyền thuyết: “xưa kia chỉ có Giếng Tiên, hàng ngày có các nàng tiên thường tới đây tắm mát, Ngọc Hoàng đã cho nước giếng dâng lên tạo thành các thác nước đổ xuống, lâu dần tạo thêm các ao. Ai được tắm ở Ao Giời - Suối Tiên trong 3 năm sẽ có làn da trắng mịn như ngọc, khuôn mặt sáng đẹp như trăng rằm, tâm hồn thư thái, sáng láng”.
Đầm Vân Hội
Đầm Vân Hội có diện tích trên 200 ha, độ sâu của nước từ 7 m đến 8 m, chỗ sâu nhất đạt 20 m. Đầm có hệ thống cung cấp và thoát nước mở nên luôn giữ mực nước ổn định, mùa mưa và mùa cạn nước chỉ chênh lệch nhau khoảng 1,3 m. Nước trong Đầm rất trong và sạch. Xung quanh Đầm có hệ thống núi và đồi và rừng của các xã Quân Khê (Hạ Hòa), xã Vân Hội, xã Việt Cường (Văn Chấn, Yên Bái) vây bọc tạo nên cảnh quan thơ mộng. Trên mặt Đầm có khoảng 40 đảo, đảo lớn nhất có diện tích 10 ha, còn lại là đảo nhỏ từ 0,5 đến 1 ha với các loại cây như: Cọ, chè, keo… tạo nên phong cảnh hữu tình. Đầm Vân Hội cách Đền Mẫu Âu Cơ (Hạ Hòa) 1km, cách Ao Giời - Suối Tiên 3 km. Đầm Vân Hội được quy hoạch thành khu du lịch nghỉ dưỡng - vui chơi giải trí cao cấp.
Tân Sơn
Vườn Quốc gia Xuân Sơn
Cách Hà Nội khoảng 120km, Vườn quốc gia Xuân Sơn rộng hơn 15.000ha, đứng thứ 12 trong số 15 vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam. Vườn được ví là “lá phổi xanh,” là điểm du lịch hấp dẫn của Phú Thọ với độ che phủ rừng lên tới 84%, chất lượng các hệ sinh thái rừng ổn định và được bảo vệ tốt. Vườn được đánh giá là nơi có môi trường không khí, môi trường nước sạch sẽ, mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm từ 22-23ºC.
Đặc biệt, một ngày ở Xuân Sơn, thời tiết có nét đặc trưng của 4 mùa: buổi sáng mát mẻ của mùa Xuân, buổi trưa ấm áp của mùa Hè, buổi chiều hiu hiu như mùa Thu, buổi tối trời se lạnh đặc trưng của mùa Đông. Đây là lợi thế của vườn trong phát triển du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng.
Tại đây hiện có 365 loài động vật, trong đó có 46 loài ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 18 loài ghi trong Sách đỏ Thế giới. Các loài đặc trưng cho hệ động vật Tây Bắc như voọc xám, vượn chó, cầy bạc má, sóc bụng đỏ đuôi trắng, gấu, báo,… về chim có: gà lôi, gà tiền, đại bàng đất,… riêng sơn dương có nhiều nhất toàn quốc. Bên cạnh đó, vườn còn có 726 loài thực vật bậc cao trong đó có 52 loài thuộc ngành quyết và ngành hạt trần. Nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật Mã Lai và Hoa Nam, hệ thực vật ở Xuân Sơn có các loài re, dẻ, sồi và mộc lan chiếm ưu thế.
Ngoài ra, ở Xuân Sơn còn có các loài tiêu biểu cho khu vực Tây Bắc như táu muối, táu lá duối, sao mặt quỷ và chò chỉ, chò vảy, nghiến, dồi, vầu đắng, kim giao (rừng chò chỉ ở Xuân Sơn là một trong những rừng chò chỉ đẹp và giàu nhất miền Bắc). Xuân Sơn còn là kho giống bản địa, kho cây thuốc khổng lồ, đặc biệt là cây rau đắng mọc tự nhiên có mật độ cao nhất miền Bắc.
Ngoài sức hấp dẫn của hệ động thực vật phong phú, Xuân Sơn còn có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Nằm trong quần thể vườn quốc gia Xuân Sơn có ba đỉnh núi cao trên 1.000m là: núi Voi, núi Ten và núi Cẩn với hàng trăm hang động; sông suối như suối Lấp, suối Thang; và nhiều thác nước có độ cao trên 50m, che phủ hang, hốc đá, hòa quyện màu thác bạc với màu xanh của rừng già làm cho phong cảnh vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.
Do quá trình phong hóa, thủy hóa tạo thành Xuân Sơn có 16 hang động đá với thạch nhũ đẹp, đa dạng, tạo nên muôn hình vạn trạng. Vào thăm hang động ở đây, du khách không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của các nhũ đá rủ xuống thành muôn hình kỳ lạ. Ðộng Tiên là một hang ngầm trong lòng núi đá cẩm thạch dài 10km. Trong hang có đường thông gió lên thẳng đỉnh núi, làm cho không khí trong lành mát dịu. Hồ nước có nhiều loài cá lạ hấp dẫn.
Bên cạnh đó, cộng đồng các dân tộc nơi đây hiện vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc của mình như trang phục, lễ hội, các hoạt động đời sống sinh hoạt hàng ngày như đan lát đồ dùng thủ công, dệt thổ cẩm, thêu, lễ cấp sắc, múa đâm đuống, múa xòe, uống rượu hoẵng, cơm lam…, những nét đẹp văn hóa đặc trưng của vùng đất các vua Hùng. Quan trọng hơn, vườn nằm trong thế chân kiềng của tổng thể cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ Tam Đảo - Ba Vì - Xuân Sơn. Trong trục tâm linh của truyền thuyết lịch sử Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, Sơn Tinh - Thủy tinh, vua Hùng, tạo nên một Xuân Sơn kỹ vĩ và có nhiều lợi thế trong bảo tồn, phát triển bền vững kết hợp với du lịch.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm đi Vườn Quốc Gia Xuân Sơn (Cập nhật 7/2024)
Bản Cỏi
Đây là ngôi làng cổ xưa nhất của người Dao Tiền, bản cuối cùng của Vườn Quốc gia Xuân Sơn. Do có loài gà chín cựa, một loài vật tưởng như chỉ có trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh mà bản Cỏi hiện nay được nhiều người biết tới. Từ một khu dân cư heo hút nằm sâu trong vùng lõi Vườn Quốc gia Xuân Sơn, nay bản Cỏi biến thành địa điểm thu hút được nhiều khách du lịch cũng như các thương lái đến thu mua loại gà này để tiêu thụ.
Đồi chè Long Cốc
Phú Thọ đã từ lâu nổi tiếng là đất trồng chè, với diện tích trồng chè trên 12 ngàn ha và sản lượng chè búp tươi vô cùng lớn. Ai đã từng qua vùng đồi trung du Phú Thọ khu vực các huyện Tân Sơn, Thanh Sơn sẽ không thể nào quên những đồi chè xanh mơn mởn, trông như những mâm xôi tầng tầng, lớp lớp ngút ngàn tạo nên cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Đồi chè Long Cốc ở Tân Sơn được xếp vào một trong những đồi chè đẹp nhất Việt Nam.
Đèo Khế
Đèo Khế là ranh giới tự nhiên giữa 2 tỉnh Phú Thọ và Yên Bái. Từ Hà Nội qua địa phận xã Thu Cúc (Phú Thọ) đi thẳng tiếp là lên đến đèo Khế. Vượt qua đèo Khế sẽ sang tới địa phận của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Trước đây, đèo Khế từng là “nỗi sợ hãi” đối với cánh tài xế và những người đi đường đêm. Sau khi được tu sửa lại, con đường đèo dài gần 30km không chỉ giúp giao thông thuận tiện mà còn trở thành điểm lui tới quen thuộc của dân mê phượt.
Thanh Sơn
Thác Mây
Thác Mây thuộc xã Hương Cần, nằm cách trung tâm huyện Thanh Sơn khoảng 25km. Trên đỉnh núi Hem có một hồ nước nhỏ, nước từ đó đổ xuống sườn núi tạo thành suối Hem và nhiều tầng thác liên hoàn kế tiếp nhau, gọi là thác Mây. Thác Mây gồm 13 thác nước lớn nhỏ, trong đó thác cao nhất là thác Thượng với nhiều cột nước tung bọt trắng xoá. Những ngày trong xanh, hoà cùng màu xanh của núi rừng và màu xanh của trời là những dòng thác như giải lụa mềm giữa trời. Nhiều thác nước lớn nhỏ đã tạo nên những cung bậc âm thanh khác nhau, có thác nước đổ rào rào, có thác nước chảy róc rách giống như những bản nhạc của thiên nhiên. Tới gần thác, không khí như dịu mát hẳn, khác biệt với không khí bên ngoài, du khách có thể đắm mình trong dòng nước suối trong mát sau khi khám phá bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Thác Mơ
Thác Mơ thuộc xã Cự Thắng, cách trung tâm huyện 15km. Trước đây, thác có tên gọi khác là thác Vạn Mơ nhưng lâu dần người ta gọi thác là thác Mơ. Ngay từ tên gọi của thác đã tạo cho du khách hình dung được khung cảnh mộc mạc, mà nên thơ. Đường vào thác được bao bọc bởi màu xanh của núi rừng, các loại hoa dại hai bên đường, góp phần tạo nên vẻ đẹp hoang sơ cho khung cảnh nơi đây.
Thác Mơ có đến 9 tầng khác nhau, từ xa, đã nghe tiếng thác nước đổ rì rào như lời hát của các sơn nữ. Men theo con suối nhỏ để đến chân thác, du khách sẽ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên còn hoang sơ của đại ngàn. Thác được vây quanh bởi những ngọn núi xanh mát, hệ động thực vật nguyên sinh phong phú, đa dạng. Sau khi khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, du khách có thể nghỉ ngơi tại nhà sàn, thưởng thức các món ăn dân giã đặc sắc của đồng bào các dân tộc Thanh Sơn.
Suối khoáng nóng Thanh Thủy
Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy nằm trên địa phận các xã La Phù và Bảo Yên huyện Thanh Thủy, cách thành phố Việt Trì hơn 40km, giáp với Hà Nội, nằm bên tả sông Đà, đối diện với núi Ba Vì. Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy là khu vực đắc địa sở hữu nguồn nước khoáng nóng cùng với các cảnh quan đẹp được coi là những tài nguyên vô giá của tự nhiên ban tặng cho Thanh Thủy để phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Qua tài liệu nghiên cứu khoa học cho thấy, nước khoáng Thanh Thuỷ có nhiệt độ dao động trong khoảng từ 37ºC - 54ºC thuộc loại nước khoáng ấm - nóng. Trong nước khoáng có nhiều chất vi lượng như: Natri, Canxi, Magie, đặc biệt có hàm lượng chất Radon vừa phải để tạo nên một loại nước quý hiếm rất thích hợp cho việc tắm ngâm, phục hồi sức khoẻ và chữa bệnh.
Hồ Ly (Hồ Thượng Long)
Sau khi ngăn đập, hồ Thượng Long hay còn gọi (hồ Ly) trở thành một trong 10 hồ có trữ lượng nước lớn nhất tỉnh, hồ có khả năng tưới cho trên 500ha lúa và cung cấp nước sinh hoạt cho hàng ngàn người dân ở xã Thượng Long, Nga Hoàng, Hưng Long, Phúc Khánh, Đồng Thịnh và thị trấn Yên Lập. Đập ngăn nước đã tạo nên một hồ nước xanh như viên ngọc giữa núi rừng.
Hồ Ly được tạo từ hai khe nước là khe Ly và khe Chanh. Người dân địa phương đã lấy tên khe Ly đặt tên gọi cho hồ. Hồ Ly có vẻ đẹp non nước hữu tình mà thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nơi đây với cảnh đẹp yên bình thu hút nhiều bạn trẻ đến tham quan, chụp hình và trải nghiệm thú vị khi khám phá văn hóa dệt thổ cẩm, thưởng thức những đặc sản của bà con dân tộc người Dao, Mường tại địa phương.
Tìm trên Google:
- các địa điểm du lịch ở Phú Thọ
- tháng 7 Phú Thọ có gì hấp dẫn
- chơi gì khi đến Phú Thọ
- phượt Phú Thọ có gì
- cảnh đẹp Phú Thọ
- địa điểm check-in Phú Thọ
- danh lam thắng cảnh Phú Thọ
- địa điểm du lịch tâm linh Phú Thọ
- đến Phú Thọ nên đi đâu
- địa điểm chụp ảnh đẹp ở Phú Thọ